Bộ Xây dựng vừa ban hành Thông tư số 10/2012/TT-BXD hướng dẫn thực hiện Nghị định số 64//2012/NĐ-CP của Chính phủ về cấp giấy phép xây dựng(GPXD), có hiệu lực thi hành từ ngày từ ngày 06/02/2013.
Hạn chế sách nhiễu trong cấp GPXD
Nghị định 64 được ban hành ngày ngày 4/9/2012, đây cũng là lần đầu tiên có Nghị định riêng quy định về GPXD nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư khi đi xin GPXD, đẩy nhanh thời gian cấp GPXD, đồng thời nâng cao nhận thức của cơ quan, cá nhân trong quá trình giải quyết cấp GPXD, bảo đảm công tác xây dựng đi vào nền nếp, tuân thủ quy hoạch, thiết kế đô thị…Một số quy định mới được đề cập trong Nghị định được coi là cải cách hành chính, tạo thuận lợi cho chủ đầu tư khi đi xin GPXD như: Đối với công trình cấp 1, cấp đặc biệt, nếu chủ đầu tư có nhu cầu thì có thể đề nghị được xem xét cấp GPXD theo giai đoạn; Đối với dự án gồm nhiều công trình, chủ đầu tư có thể đề nghị được cấp GPXD cho một, nhiều hoặc tất cả công trình thuộc dự án;Nghị định đã quy định cụ thể quy trình cấp GPXD, thời gian cho ý kiến là 10 ngày. Đặc biệt để tránh tình trạng cơ quan cấp GPXDyêu cầu chủ đầu tư bổ sung hồ sơ nhiều lần, Nghị định quy định khi nhận hồ sơ cơ quan cấp phép phải xem xét kỹ để thông báo chỉ một lần bằng văn bản để chủ đầu tư bổ sung, hoàn chỉnh. Quy định cũng được coi là tạo thông thoáng hơn đó là đối với trường hợp điều chỉnh thiết kế không làm thay đổi hình thức kiến trúc mặt ngoài công trình thì không phải xin điều chỉnh GPXD…
Bên cạnh đó Nghị định 64 cũng đưa ra nhiều quy định nhằm tăng cường quản lý nhà nước về xây dựng, như đối tượng phải có GPXD được cụ thể hơn, điều kiện để được cấp phép cũng rõ rang hơn, công trình phải phù hợp với mục tiêu đầu tư, mục đích sử dụng đất, phải phù hợp với thiết kế đô thị. Các công trình được cấp GPXD tạm cũng phải phù hợp với mục đích sử dụng đất, mục tiêu đầu tư, bảo đảm an toàn…
Tăng cường quản lý xây dựng đô thị
Trên tinh thần đó của Nghị định 64, Thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định quy định chi tiết, cụ thể hơn việc xem xét các điều kiện để cấp GPXD đối với công trình và nhà ở riêng lẻ, theo cơ quan cấp phép phải căn cứ quy mô, tính chất của công trình, địa điểm xây dựng công trình để đối chiếu với các quy định của pháp luật, tùy thuộc vào quy mô, tính chất, địa điểm xây dựng của công trình, nhà ở riêng lẻ đó, cơ quan cấp giấy phép xem xét nếu công trình liên quan đến các điều kiện nào quy định tại Điều 5, Điều 6 Nghị định 64/CP thì gửi hồ sơ lấy ý kiến các cơ quan quản lý nhà nước về các lĩnh vực đó. Trong thời hạn 10 ngày các cơ quan này phải có ý kiến về các nội dung thuộc chức năng quản lý của mình; nếu công trình không liên quan đến điều kiện nào thì không phải lấy ý kiến của các cơ quan này.
Thông tư hướng dẫn cụ thể hồ sơ đề nghị cấp GPXD đối với các trường hợp xây dựng mới; xây dựng theo giai đoạn; cấp GPXD cho dự án, cho nhà ở riêng lẻ; cho các trường hợp cải tạo, sửa chữa, di dời công trình; GPXD tạm; việc điều chỉnh GPXD.
Theo quy định của pháp luật về xây dựng, trước khi khởi công xây dựng, thiết kế bản vẽ thi công phải được chủ đầu tư tổ chức thẩm định và phê duyệt; do đó khi nộp hồ sơ xin GPXD chủ đầu tư chỉ cần lấy ra một số bản vẽ có liên quan để cơ quan cấp phép xây dựng xem xét công trình có đáp ứng các điều kiện về quy hoạch, kiến trúc, đấu nối hạ tầng, trong đó có bản vẽ kết cấu chịu lực nộp cùng với báo cáo kết quả thẩm định và văn bản phê duyệt thiết kế do tổ chức, cá nhân có năng lực thực hiện để chứng minh là công trình đã được thiết kế, thẩm định, phê duyệt theo quy định đảm bảo an toàn công trình. Tổ chức, cá nhân thiết kế phải chịu trách nhiệm về sản phẩm thiết kế do mình thực hiện.
Đối với nhà ở riêng lẻ có quy mô từ 3 tầng trở lên hoặc tổng diện tích sàn xây dựng từ 250 m2 trở lên chỉ yêu cầu có bản vẽ do tổ chức, cá nhân có đủ năng lực thiết kế thực hiện, không yêu cầu phải có báo cáo thẩm định, phê duyệt; riêng nhà ở có quy mô dưới 3 tầng, dưới 250 m2 thì hộ gia đình tự tổ chức thiết kế và chịu trách nhiệm về an toàn công trình và công trình lân cận.
Về nguyên tắc, theo quy định của Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị(2009) và Nghị định 64/CP thì một trong các căn cứ để xem xét cấp GPXD là quy hoạch chi tiết, thiết kế đô thị. Đối với các khu vực, tuyến phố trong đô thị đã cơ bản ổn định chức năng sử dụng các lô đất thì không phải lập đồ án quy hoạch đô thị nhưng phải lập đồ án thiết kế đô thị để làm cơ sở xét cấp giấy phép xây dựng đảm bảo công tác xây dựng đô thị theo quy hoạch, kiến trúc đã được phê duyệt, đồng thời nhằm tránh tình trạng thỏa thuận, xin cho tùy tiện cho từng trường hợp khi cấp giấy phép xây dựng. Tuy nhiên do các địa phương triển khai quy định chậm, nên đến nay hầu hết các đô thị chưa phủ kín quy hoạch chi tiết, chưa có thiết kế đô thị cũng như các quy định về quản lý quy hoạch, kiến trúc. Do đó, để đảm bảo các điều kiện cấp phép xây dựng, tại Nghị quyết số 83/NQ-CP ngày 7/12/2012 Chính phủ đã cho phép lùi thời điểm thực hiện quy định trên đến 01/7/2013 (điểm b, khoản 1, Điều 6 Nghị định số 64/2012/NĐ-CP); đồng thời yêu cầu các địa phương triển khai nhanh việc lập thiết kế đô thịtrình cấp có thẩm quyền phê duyệt để làm cơ sở cấp GPXD. Theo đó, tại Thông tư số 10/2012/TT-BXD, Bộ Xây dựng đã hướng dẫn UBND cấp tỉnh căn cứ tính chất, chức năng và yêu cầu quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị ban hành các quy định cụ thể về các khu vực, tuyến phố trong đô thị phải lập đồ án thiết kế đô thị, đặc biệt là các đường phố có lộ giới từ 12m trở lên. Những khu vực, tuyến phố không thuộc danh mục yêu cầu phải lập đồ án thiết kế đô thị thì UBND cấp tỉnh ban hành Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc để làm căn cứ cấp GPXD.
Theo Thông tư này, ngoài quy định đối với hồ sơ đề nghị cấp GPXD của mỗi loại công trình, nhà ở riêng lẻ, thì tùy thuộc địa điểm xây dựng công trình, quy mô và tính chất của công trình, hồ sơ đề nghị cấp GPXD còn phải bổ sung các tài liệu khác như: bản vẽ phòng cháy chống cháy (PCCC) tỷ lệ 1/50-1/200 được đóng dấu thẩm duyệt đối với các công trình thuộc danh mục công trình yêu cầu ; Báo cáo kết quả thẩm định và văn bản phê duyệt thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công của chủ đầu tư theo quy định; Quyết định phê duyệt dự án kèm theo văn bản chấp thuận đầu tư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, văn bản tham gia ý kiến về thiết kế cơ sở của cơ quan quản lý nhà nước về công trình xây dựng chuyên ngành theo quy định; Văn bản phê duyệt biện pháp thi công của chủ đầu tư đảm bảo an toàn cho công trình và công trình lân cận đối với công trình xây chen có tầng hầm; Bản kê khai năng lực, kinh nghiệm của tổ chức, cá nhân là chủ nhiệm, chủ trì thiết kế…
Đối với nhà ở riêng lẻ ở nông thôn, trong trường hợp khu vực xây dựng chưa có quy hoạch điểm dân cư nông thôn được duyệt thì UBND cấp huyện có trách nhiệm quy định các khu vực khi xây dựng phải xin GPXD để làm căn cứ cấp GPXD. Ngoài các khu vực đã có quy hoạch được duyệt và các khu vực yêu cầu phải xin GPXD theo quy định của UBND cấp huyện, thì khi xây dựng nhà ở riêng lẻ tại nông thôn không phải xin GPXD…
Thông tư này cũng quy định cụ thể về thẩm quyền cấp GPXD đối với các loại công trình của UBND cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Công trình do cơ quan nào cấp phép thì cơ quan đó có quyền điều chỉnh, gia hạn, cấp lại và thu hồi giấy phép do mình cấp. Đối với giấy phép do cấp dưới cấp không đúng quy định, UBND tỉnh có quyền quyết định thu hồi.